Chính Sách Thu Hút Kiều Hối

Chính Sách Thu Hút Kiều Hối

Chính phủ Hàn Quốc mới đây thông báo tăng hạn ngạch lao động nước ngoài trong năm ngành công nghiệp (nông nghiệp, sản xuất cơ bản, dịch vụ/bán lẻ, vận tải và đóng tàu). Theo thống kê đến tháng 6/2022, ngành công nghiệp đóng tàu Hàn Quốc thiếu 4.800 lao động, ngành sản xuất cơ bản cần thêm 27.000 lao động, ngành dịch vụ và bán lẻ thiếu 14.200 nhân công, trong khi các công ty xe buýt và ta-xi cần 2.300 lao động. Bộ Lao động và Tuyển dụng Hàn Quốc cũng đã cam kết rút ngắn quá trình nhập cảnh cho các lao động, thông suốt thủ tục hành chính cho người tuyển dụng lao động nhập cư và tăng cường hỗ trợ những ngành công nghiệp quan trọng.

Giải pháp đồng bộ nắm bắt cơ hội thu hút ‘đại bàng’ công nghệ cao

Theo TS Phan Hữu Thắng, chủ trương ưu tiên hàng đầu trong kỷ nguyên mới là thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao...

Theo TS Phan Hữu Thắng: Để đạt được mục tiêu này, tất cả các thành phần kinh tế - xã hội, các địa phương (bao gồm cả Vĩnh Phúc), các tổ chức xã hội (bao gồm cả VIPFA) phải có các chương trình hành động cụ thể để góp phần phát triển bền vững hiệu quả kinh tế- xã hội đất nước, nhất là đối với hệ thống các KCN Việt Nam hiện nay.

Tỉnh Vĩnh Phúc cam kết sẵn sàng về mặt bằng sạch, điện, nước, viễn thông, nguồn nhân lực và sẵn sàng cung cấp thủ tục hành chính nhanh gọn và thuận lợi nhất cho nhà đầu tư - Ảnh: VGP/HT

Trước đòi hỏi cấp bách của việc cần thực hiện đầu tư phát triển xanh trong giai đoạn tới, nhất là đối với các KCN hiện có và cấp mới, Chính phủ cũng đã đồng ý với kiến nghị của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH&ĐT) về mục tiêu đến năm 2030 có khoảng 40-50% địa phương chuyển đổi các KCN hiện hữu sang KCN sinh thái và 8-10% địa phương có định hướng xây dựng KCN sinh thái mới để từng bước lập kế hoạch xây dựng và định hướng ngành, nghề thu hút đầu tư.

Để làm được điều này thì tiềm lực tài chính và năng lực của các doanh nghiệp Việt Nam là rất quan trọng, xúc tiến đầu tư phải thực chất, hiệu quả hơn. Với tiềm năng Vĩnh Phúc sẵn có, VIPFA đã quyết định chọn địa bàn Vĩnh Phúc để thực hiện sứ mệnh phục vụ các thành viên hội viên của mình nói riêng và của xã hội nói chung.

Ông Vũ Văn Chung, Phó Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoại (Bộ KH&ĐT) cho biết, các tổ chức quốc tế đánh giá cao môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam.

Bên cạnh thuận lợi, Vĩnh Phúc cũng đối mặt với một số khó khăn như: Vẫn còn phụ thuộc vào một số ngành công nghiệp nhất định, phụ thuộc vào một số đối tác lớn. Chất lượng nguồn nhân lực, thiếu lao động tay nghề đáp ứng với ngành công nghệ cao...

"Cần tiếp tục đẩy mạnh liên kết tạo thành các cụm công nghiệp hỗ trợ theo từng lĩnh vực; phát triển liên kết vùng và ngành, kết nối Vĩnh Phúc với các tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ để hình thành chuỗi giá trị vùng; triển khai các biện pháp kiểm soát môi trường chặt chẽ...", ông Vũ Văn Chung nói.

Dưới góc độ ngân hàng, đại diện của BIDV chia sẻ: tiên phong trong lĩnh vực tín dụng xanh, BIDV đã có gói tín dụng 4.200 tỷ đồng với các dự án đầu tư mới, cải tạo nâng cấp công trình, nhà xưởng, máy móc thiết bị hướng tới việc sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả, giảm thiểu ô nhiễm môi trường.các phương án kinh doanh thực hiện các đơn hàng xuất khẩu đáp ứng các tiêu chí xanh của các thị trường (châu Âu, Mỹ, Nhật Bản...). BIDV cũng có gói tín dụng 5.000 tỷ đồng đầu tư mới hoặc đầu tư mở rộng, đầu tư cải tạo hoặc sửa chữa các công trình xử lý nước sạch; công trình tái sử dụng nước thải sinh hoạt đã qua xử lý...

Đại diện BIDV kiến nghị cần ban hành quy định hướng dẫn về định nghĩa, tiêu chí và tiêu chuẩn tài chính xanh, đặc biệt trong lĩnh vực KCN; ban hành hướng dẫn về ưu đãi thuế cho doanh nghiệp đầu tư và năng lượng tái tạo, xử lý chất thải...

Ông Hong Sun, Chủ tịch Hiệp hội DN Hàn Quốc tại Việt Nam cho biết, nhiều doanh nghiệp lớn, đặc biệt là các tập đoàn từ Hàn Quốc đang chọn Việt Nam làm điểm đến đầu tư, trong đó, Vĩnh Phúc là một trong những địa phương được ưu tiên hàng đầu. Tuy nhiên, khi muốn mở rộng các dự án đầu tư ở đây, các doanh nghiệp này đang đối mặt với thách thức về nguồn nhân lực và cơ sở hạ tầng... "Nếu chuẩn bị tốt hơn nguồn nhân lực, hạ tầng, giảm các thủ tục, phục vụ cho thu hút các dự án đầu tư công nghệ cao, sản xuất bán dẫn, các doanh nghiệp Hàn Quốc sẽ tiếp tục mở rộng đầu tư vào Vĩnh Phúc", ông Hong Sun nói.

Bà Ngô Phẩm Trân, Chủ tịch Hiệp hội DN Đài Việt cho biết, trong bối cảnh làn sóng dịch chuyển sản xuất từ Trung Quốc sang các nước Đông Nam Á, nhiều tập đoàn lớn của Đài Loan, đặc biệt trong ngành điện tử, đang tìm kiếm cơ hội đầu tư. Đặc điểm các DN điện tử là khi có DN lớn đầu tư, sẽ có chuỗi các DN cung ứng phụ trợ đi theo. Trong 3 năm qua, nhiều tập đoàn Đài Loan đã khảo sát và đầu tư vào Việt Nam.

"Nếu như trước đây, các DN còn e ngại về năng lực thu hút đầu tư lĩnh vực điện tử bán dẫn ở Việt Nam, thì trong khoảng 2 năm gần đây với quyết tâm của Chính phủ cùng chủ trương chính sách hỗ trợ khuyến khích, các tập đoàn Đài Loan đã bắt đầu xem xét đầu tư vào các lĩnh vực như bán dẫn, thiết kế chip và nghiên cứu công nghệ tại Việt Nam. Trong đó, Vĩnh Phúc được đánh giá là một địa điểm có tiềm năng lớn, đặc biệt khi đã thu hút các tập đoàn lớn như Compal và các doanh nghiệp lớn trong chuỗi cung ứng", bà Ngô Phẩm Trân nói.

Bên cạnh đó, theo Chủ tịch Hiệp hội DN Đài Việt, các doanh nghiệp Đài Loan đang hướng tới phát triển năng lượng xanh như điện mặt trời, điện gió, cung cấp các giải pháp lưu trữ năng lượng hiệu quả, giúp tiết kiệm 20% điện năng...

"Các doanh nghiệp điện tử quốc tế hiện nay yêu cầu các chứng chỉ xanh được công nhận toàn cầu để đáp ứng yêu cầu của khách hàng tại Mỹ và châu Âu, hy vọng Vĩnh Phúc sẽ là điểm dừng chân của các DN này", bà Ngô Phẩm Trân kỳ vọng.

Chiến lược thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Việt Nam (FDI) sẽ tiếp tục xu hướng thu hút có chọn lọc nhằm nâng cao năng lực sản xuất, tăng tính lan tỏa giữa khu vực FDI với khu vực kinh tế trong nước, hạn chế các tác động tiêu cực tới môi trường, giảm việc sử dụng máy móc, thiết bị công nghệ lạc hậu, tiêu tốn tài nguyên và năng lượng, thâm dụng lao động và ít tạo ra giá trị gia tăng, hàm lượng khoa học công nghệ thấp… Bên cạnh đó, yêu cầu đảm bảo bền vững nguồn thu ngân sách cũng đòi hỏi phải rà soát lại toàn bộ các chính sách tài chính, tronag đó có các ưu đãi về thuế, phí, đất đai trong thu hút đầu tư. Vì vậy, bài viết đưa ra những đánh giá tổng quan về chính sách tài chính thu hút vốn FDI, đồng thời đề xuất một số giải pháp hoàn thiện chính sách tài chính phù hợp với định hướng thu hút vốn FDI trong thời gian tới.

Chính sách tài chính thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam

Giai đoạn trước khi có Luật Đầu tư 2005, chính sách ưu đãi đầu tư của Việt Nam có sự phân biệt giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Đối tượng được ưu đãi đầu tư là các dự án được xác định theo hai tiêu chí chủ yếu là lĩnh vực đầu tư và địa bàn đầu tư. Ngoài ra có thêm một số tiêu chí khác như định hướng xuất khẩu, sử dụng nhiều lao động, công nghệ tiên tiến… Các biện pháp ưu đãi chủ yếu là miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong toàn thời gian hoặc một thời gian nhất định; ưu đãi thuế nhập khẩu đối với máy móc và tiền thuê đất.

Ở Trung ương, thẩm quyền quyết định các chính sách ưu đãi đầu tư thuộc về Chính phủ. Sau khi Luật Đầu tư 2005 được ban hành, nhiều tiêu chí để xác định đối tượng được ưu đãi thuế cũng được điều chỉnh, bãi bỏ. Đối tượng ưu đãi thuế dựa trên hai tiêu chí chính là ưu đãi theo địa bàn (khó khăn và đặc biệt khó khăn) và theo lĩnh vực, không còn tình trạng các địa phương ưu đãi đầu tư tràn lan bằng biện pháp ưu đãi về thuế. Tuy nhiên, các địa phương vẫn có thẩm quyền ban hành chính sách ưu đãi đầu tư (cụ thể hóa chính sách của trung ương) và thường sẽ áp dụng các biện pháp như hỗ trợ chi phí, hạ tầng, thủ tục hành chính…

Hiện tại, các chính sách ưu đãi về tài chính để thu hút vốn FDI tập trung: (i) Ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN); (ii) Ưu đãi thuế xuất - nhập khẩu; (iii) Ưu đãi về tài chính đất đai.

Đối với ưu đãi thuế TNDN: Để phục vụ các chiến lược và định hướng chuyển đổi nền kinh tế, hệ thống chính sách về thuế tiếp tục được cải cách lần thứ tư với thay đổi quan trọng nhất là giảm thuế suất thuế phổ thông. Cụ thể, mức thuế suất phổ thông qua các lần sửa Luật Thuế TNDN theo xu hướng giảm, từ 28% trong giai đoạn 2001 - 2008 xuống còn 25% trong giai đoạn 2009 - 2013, 22% trong giai đoạn 2014 - 2015 và 20% từ ngày 01/01/2016. Bên cạnh việc giảm thuế suất, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế TNDN năm 2013 đã bổ sung ưu đãi đối với đầu tư trong khu công nghiệp (trừ khu công nghiệp thuộc địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội thuận lợi) và dự án đầu tư mở rộng; quy định ưu đãi thuế TNDN ở mức cao đối với một số lĩnh vực mũi nhọn cần khuyến khích đầu tư đã góp phần thu hút đầu tư, khuyến khích kinh doanh, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp tăng tích lũy. Bên cạnh đó, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật về thuế số 71/2014/QH13 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2015 đã bổ sung một số lĩnh vực, ngành nghề thuộc diện ưu đãi thuế như trồng trọt, chăn nuôi, chế biến nông, lâm, thủy sản (không áp dụng ưu đãi đối với lĩnh vực chế biến lâm sản); sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ; các dự án sản xuất có quy mô vốn lớn và công nghệ cao.

Theo quy định hiện hành, mức thuế suất ưu đãi cao nhất là 10% trong thời hạn 15 năm và miễn thuế 4 năm, giảm 50% số thuế phải nộp trong 9 năm tiếp theo đối với các dự án đầu tư mới trong một số lĩnh vực đặc thù, khuyến khích phát triển như công nghệ thông tin, phần mềm, năng lượng tái tạo, năng lượng từ việc tiêu hủy chất thải; lĩnh vực bảo vệ môi trường; lĩnh vực sản xuất. Ngoài ra, các doanh nghiệp, bao gồm cả các doanh nghiệp FDI, còn được hưởng các ưu đãi khác như: (i) Được chuyển lỗ sang năm sau, trừ vào thu nhập tính thuế, thời gian không quá 5 năm kể từ năm tiếp theo năm phát sinh lỗ; (ii) Cho phép thực hiện khấu hao nhanh; (iii) Ưu đãi giảm thuế TNDN trong một số lĩnh vực đặc thù để giải quyết các vấn đề xã hội.

Đối với ưu đãi về thuế xuất khẩu, nhập khẩu: Trước năm 2016, các chính sách ưu đãi được thực hiện theo Luật Thuế xuất khẩu, nhập khẩu năm 2005. Việc miễn thuế nhập khẩu tiếp tục được duy trì đối với nguyên liệu, vật tư nhập khẩu để gia công hàng xuất khẩu; máy móc, thiết bị nhập khẩu để tạo tài sản cố định của dự án khuyến khích đầu tư; miễn thuế đối với hàng kinh doanh tạm nhập tái xuất; miễn thuế đối với hàng hóa nhập khẩu chuyên dùng cho nghiên cứu khoa học, giáo dục đào tạo… Từ năm 2016 đến nay, chính sách ưu đãi được áp dụng theo Luật Thuế xuất khẩu, nhập khẩu 2016. Theo đó, Luật đã bổ sung doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp khoa học - công nghệ, tổ chức khoa học - công nghệ được miễn thuế nhập khẩu nguyên liệu, vật tư, linh kiện trong nước chưa sản xuất được trong thời hạn 5 năm kể từ khi bắt đầu sản xuất; bổ sung quy định miễn thuế đối với nguyên liệu, vật tư, linh kiện nhập khẩu trong nước chưa sản xuất được để sản xuất, lắp ráp trang thiết bị y tế cần được ưu tiên nghiên cứu, chế tạo. Một số ưu đãi thuế xuất khẩu, nhập khẩu đang được áp dụng như: (i) Miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu để gia công cho nước ngoài và khi xuất trả sản phẩm cho phía nước ngoài thì được miễn thuế xuất khẩu; (ii) Hàng hóa nhập khẩu để gia công được miễn thuế, hàng tạm nhập tái xuất và hàng hóa là nguyên liệu vật tư phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu có thể được kéo dài thời gian nộp thuế tới 275 ngày kể từ ngày mở tờ khai hải quan; hàng hóa tạm nhập tái xuất có thể được kéo dài thời gian nộp thuế tới 15 ngày kể từ ngày hết hạn; (iii) Miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa để tạo tài sản cố định đối với các dự án đầu tư vào các lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư, lĩnh vực khuyến khích đầu tư và các dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn.

Đối với các ưu đãi về đất đai: Trước ngày 30/6/2014, các ưu đãi về đất đai được chia theo hai hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất và thuê đất, áp dụng giảm số tiền phải nộp ở các mức 20%, 30%, 50% hoặc miễn giảm về thời hạn 7 năm, 11 năm, 15 năm. Từ đầu tháng 7/2014 đến nay, các ưu đãi về đất đai thực hiện theo Luật Đất đai 2013 và các nghị định quy định về thu tiền sử dụng đất, thu tiền thuê đất, thuê mặt nước. Theo đó, Nhà nước đã thống nhất áp dụng hình thức cho thuê đối với đất sử dụng vào mục đích sản xuất - kinh doanh, có tính thời hạn và theo từng giai đoạn cụ thể. Đồng thời để thu hút đầu tư, tăng cường quản lý, sử dụng có hiệu quả nguồn lực tài chính đất đai tại các khu kinh tế, khu công nghệ cao, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 35/2017/NĐ-CP ngày 03/4/2017 quy định thu tiền sử dụng đất, thu tiền thuê đất, thuê mặt nước trong khu kinh tế, khu công nghệ cao với mức ưu đãi cao hơn các dự án đầu tư thông thường.

Ngoài ra Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách, hỗ trợ về đất đai đối với doanh nghiệp như: (i) Giảm 50% tiền thuê đất trong giai đoạn 2011 - 2014; (ii) Điều chỉnh giảm tỷ lệ tính đơn giá thuê đất chung từ 1,5% (quy định tại Nghị định số 121/2010/NĐ-CP) xuống còn 1% (quy định tại Nghị định số 46/2014/NĐ-CP) và ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định cụ thể tỷ lệ trong khung từ 0,5 - 3% theo từng khu vực, tuyến đường tương ứng với từng mục đích sử dụng đất để áp dụng thu tiền thuê đất tại địa phương; (iii) Áp dụng hệ số điều chỉnh giá đất trong việc xác định giá đất để tính thu tiền thuê đất.

Giải pháp hoàn thiện chính sách tài chính thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thời gian tới

Theo quy định pháp luật thuế hiện hành, doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài được đối xử như nhau cả về điều kiện cũng như mức độ ưu đãi thuế. Đối tượng ưu đãi thuế dựa trên hai tiêu chí chính: Ưu đãi theo địa bàn và theo lĩnh vực. Trong đó, lĩnh vực ưu đãi và đặc biệt ưu đãi đầu tư bao gồm: Hoạt động công nghệ cao; nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; sản xuất vật liệu mới, năng lượng mới, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; sản xuất sản phẩm tạo ra tối thiểu 30% giá trị gia tăng; sản phẩm tiết kiệm năng lượng; sản xuất phụ kiện, linh kiện điện tử, cụm chi tiết điện tử, sản phẩm cơ khí, máy phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, ô tô, phụ tùng ô tô, đóng tàu, trồng trọt, chế biến sản phẩm nông nghiệp... Đầu tư tại địa bàn trong danh mục các địa bàn khuyến khích đầu tư bao gồm địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn hoặc địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; khu công nghiệp; khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế.

Việc giảm thuế suất thuế TNDN và đa dạng hóa các hình thức ưu đãi thuế đã góp phần tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Trong 10 năm gần đây, tổng số vốn FDI thực hiện tại Việt Nam đều trên 10 tỷ USD/năm. Đến nay, Việt Nam đã thu hút được vốn đầu tư từ 130 quốc gia/vùng lãnh thổ. Các dự án FDI đã hiện diện tại 63/63 địa phương, đầu tư vào 19/21 ngành nghề sản xuất - kinh doanh của Việt Nam. Việc miễn, giảm thuế đã thúc đẩy gia tăng doanh thu xuất khẩu qua các năm, đặc biệt là xuất khẩu của khu vực FDI. Ngoài ra, các ưu đãi tài chính hiện hành cũng góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp FDI, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Nghị quyết số 50-NQ/TW yêu cầu nghiên cứu, xây dựng các quy định khắc phục tình trạng vốn mỏng, chuyển giá, đầu tư “chui”, đầu tư “núp bóng”; xây dựng thể chế, chính sách ưu đãi vượt trội, cạnh tranh quốc tế tạo điều kiện kinh doanh thuận lợi thu hút các dự án lớn, trọng điểm quốc gia, dự án công nghệ cao... thu hút các nhà đầu tư chiến lược, các tập đoàn đa quốc gia đầu tư, đặt trụ sở và thành lập các trung tâm nghiên cứu - phát triển (R&D), trung tâm đổi mới sáng tạo tại Việt Nam; cơ chế khuyến khích, ưu đãi thỏa đáng để tăng liên kết giữa đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước, các lĩnh vực cần ưu tiên thu hút; phát triển cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị, góp phần nâng cao giá trị gia tăng nội địa, sức cạnh tranh của sản phẩm và vị trí quốc gia trong chuỗi giá trị toàn cầu; xây dựng cơ chế ưu đãi thu hút đầu tư nước ngoài vào phát triển cơ sở hạ tầng cho khu vực miền núi phía Bắc, Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long… Vì vậy trong giai đoạn tới, một số giải pháp cần được tập trung thực hiện nhằm hoàn thiện chính sách tài chính thu hút vốn FDI như sau:

(1) Rà soát tổng thể các chính sách tài chính, đặc biệt là chính sách thuế thu hút vốn FDI đang được áp dụng, để có những điều chỉnh, sửa đổi bổ sung cho phù hợp, hướng đến xây dựng một hệ thống thuế tốt với chi phí tuân thủ thấp. Theo đó, Chính phủ Việt Nam cần xây dựng chương trình tổng thể để rà soát, đánh giá lại tất cả các chính sách ưu đãi thu hút vốn FDI hiện hành trên cả hai phương diện lợi ích và chi phí, qua đó hạn chế tối đa sự “dư thừa chính sách” gây lãng phí nguồn lực NSNN.

(2) Rà soát tổng thể danh mục ngành, nghề, địa bàn ưu đãi đầu tư gắn với việc đánh giá hiệu quả của các chính sách ưu đãi về đầu tư nói chung và chính sách tài chính nói riêng trên các phương diện quy mô vốn đầu tư, quy mô vốn thực hiện, tỷ lệ vốn thực hiện trên vốn đầu tư, số việc làm tạo ra, kim ngạch xuất khẩu, tỷ lệ nội địa hóa… trong mối tương quan với chi phí thuế (giảm thu NSNN).

(3) Hoàn thiện hệ thống pháp luật về chống chuyển giá và hiện tượng “vốn mỏng”, trong đó đẩy mạnh nghiên cứu và xây dựng luật về chuyển giá; quy định cụ thể tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu làm cơ sở tính chi phí hợp lý, hợp lệ khi xác định thu nhập chịu thuế; tăng cường hiệu quả hợp tác quốc tế về thuế, nhất là trong việc chia sẻ các thông tin về chính sách ưu đãi thuế và về các hiệp định thuế.

(4) Tiếp tục thực hiện các giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh như: Cắt giảm thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh; đơn giản hóa thủ tục đăng ký doanh nghiệp, kiểm tra chuyên ngành…; cải thiện về cơ sở hạ tầng (giao thông, thông tin); nâng cao chất lượng lao động.